Trong quá trình tìm hiểu về tín ngưỡng thờ đức Quan đế và Thánh Mẫu Thiên Hậu của cộng đồng người Hoa ở Sài Gòn, mình khá rối não trước nhiều tên gọi khác nhau của cùng một cơ sở: “chùa Bà Thiên Hậu – Hội quán Tuệ Thành”, “Chùa Ông – Hội quán Nghĩa An”, “Chùa Ông Bổn – miếu Nhị Phủ – Hội quán Nhị Phủ”, “Hội quán Hà Chương, hoặc chùa ông Hược, hoặc chùa Bà Hà Chương”. Bởi theo mình biết, các khái niệm “chùa”, “đền”, “miếu” là rất khác nhau về chức năng thờ cúng. Vậy tại sao lại có sự rối rắm này?
Các nguồn tham khảo kiến thức:
– Sách “Gia Định thành thông chí” – Trịnh Hoài Đức, xuất bản khoảng 1818-1820
– Bài viết “Lại bàn về khái niệm “Hội Quán”, “Miếu”, “Chùa” của cộng đồng người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh” – Huỳnh Thiệu Phong
– Wikipedia.org
1. LỊCH SỬ DI CƯ NGƯỜI HOA VÀ SỰ RA ĐỜI HỘI QUÁN
Lịch sử hình thành và phát triển của các miếu Hoa ở Đông Nam Bộ gắn liền với lịch sử định cư của người Hoa ở vùng đất phương Nam. Ngay từ cuối thế kỷ XVII, các di dân Trung Hoa đã có mặt tại Cù Lao Phố và xây dựng nơi đây thành một thương cảng sầm uất. Cùng thời gian đó, họ cũng có mặt tại vùng Sài Gòn. Người Hoa ở Đông Nam Bộ nói chung được cấu thành từ 2 bộ phận tương ứng với những thời điểm và lý do di trú khác nhau trong lịch sử:
– Bộ phận thứ nhất bao gồm những người “phản Thanh phục Minh” qua Việt Nam tị nạn chính trị cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII và hậu duệ của họ, thường vẫn được gọi chung là người Minh Hương.
– Bộ phận thứ hai gồm những người Hoa qua Việt Nam làm ăn sinh sống từ cuối thế kỷ thứ XVIII trở đi. Các nhóm người Hoa thuộc bộ phận thứ hai ban đầu được tổ chức theo đơn vị “phủ” rồi “bang” như phủ Phước Châu, phủ Chương Châu, phủ Triều Châu, phủ Ninh Ba rồi bang Phúc Kiến, bang Triều Châu, bang Hải Nam.
Năm 1778, quân Tây Sơn đã đàn áp những người Hoa ở Cù lao Phố do họ đã ủng hộ Nguyễn Ánh. Vì vậy, người Hoa từ Cù lao Phố đã chuyển đến Chợ Lớn mà người Hoa gọi là “Đề Ngạn”. Cùng với việc định cư, người Hoa thường góp tiền xây dựng hội quán cho nhóm cộng đồng của mình. Ban đầu, “Hội quán là những tổ chức cộng đồng theo nhóm dân tộc của người Hoa ở Việt Nam, được hình thành do nhu cầu thiết lập, cố kết cộng đồng trong quá trình sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam”. (theo Nguyễn Đệ (2015), “Tổ chức xã hội của người Hoa ở Nam Bộ hiện nay” in trong Nhân học và cuộc sống (tập 3), Nxb Đại học Quốc gia TP. HCM.)
Nếu chùa là cơ sở thờ tự mang màu sắc tôn giáo đạo Phật, miếu là cơ sở mang màu sắc tín ngưỡng thờ thần, thánh; thì hội quán lại mang những sắc thái của một tổ chức xã hội thu nhỏ và chỉ có ở cộng đồng người Hoa, là sản phẩm của một quá trình lịch sử.
2. TẠI SAO CÁC HỘI QUÁN LẠI CÓ NHIỀU CÁCH GỌI NHƯ VẬY?
Với khái niệm trên, rõ ràng ba khái niệm “chùa” – “miếu” – “hội quán” đều có sự khác nhau về nguyên nhân hình thành, chức năng của mỗi loại công trình. Vậy tại sao các Hội quán của người Hoa lại có nhiều cách gọi như vậy?
Thực tế khi đến thăm các Hội quán ở khu quận 5, mình cũng nhận thấy các Hội quán này hiện nay, ngoài là nơi tương trợ đồng hương và cố kết các mối quan hệ trong cộng đồng của người Hoa như định nghĩa trên, chức năng “thờ tự” thể hiện khá rõ.
Trong quá trình tìm hiểu, mình thấy trong phần “Hội quán Hoa ở Hội An (Quảng Nam) trong so sánh các miếu Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh” (Nam Bộ – Đất và Người, Tập VIII), NXB Đại học Quốc gia TP.HCM, Võ Thị Ánh Tuyết (2011) và “Miếu Thiên Hậu – Tuệ Thành Hội quán” (2000), NXB Trẻ, có nêu thông tin như sau:
Hội quán Tuệ Thành là do người Hoa đầu tiên đến làm ăn, phải lưu trú buôn bán dài ngày theo mùa gió, thường đi lúc mùa gió Bắc lúc về mùa gió Nam. Ở Việt Nam vài ba tháng mỗi năm, ở dưới ghe không tiện, nên họ lập Hội quán để có nơi cư trú, tiện giao dịch buôn bán và hỗ trợ, hội họp đồng hương. Trên ghe cũng có thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu để phù hộ độ trì việc đi trên biển.
Dần dần, người Hoa cư trú đông đúc và lâu dài, Hội quán gắn bó mật thiết với cuộc sống và các hoạt động kinh tế với người Hoa, nên chức năng thờ tự và tín ngưỡng trong hội quán phát triển và nổi bật, người Hoa lập Miếu trong Hội quán để thờ tự. Theo thời gian, “Hội quán” có trước, “Miếu” có sau.
Từ trường hợp của Hội quán Tuệ Thành – Miếu Thiên Hậu, có thể suy ra các trường hợp khác cũng có thể tương tự: Hội quán với chức năng “tương trợ cộng đồng” ban đầu dần trở thành “miếu” với chức năng tín ngưỡng, thờ tự. Tuy nhiên, dù có sự biến đổi dần và đồng nhất như vậy, thì tại sao dân gian người gọi là “chùa”, người gọi là “miếu”?
Đề cập về vấn đề này, nhà nghiên cứu Phan Thị Yến Tuyết, trong Người Hoa ờ Sài Gòn Thành phố Hồ Chí Minh (2013), đã có những nhận định như sau:
“Trong dân gian có thói quen gọi vắn tắt hội quán của các cộng đồng người Hoa ở Nam Bộ là chùa, miếu, bất kể là giao lưu văn hóa gì thì vô hình trung cũng quy hội quán vào phạm trù cơ sở tôn giáo – tín ngưỡng, dễ dẫn tới cách hiểu sai lệch về tính chất và chức năng chủ yếu của hội quán…”
Thực ra, sự phân biệt các dạng công trình này không phải là khó, chẳng qua phát xuất từ tâm lý xem nhẹ những giá trị văn hóa của cha ông đi trước để lại cho ta mà thôi. Vì vậy, sau khi tìm hiểu kỹ rồi, mình sẽ gọi đúng tên của những cơ sở tín ngưỡng này như sau:
“Hội quán Tuệ Thành – miếu Bà Thiên Hậu”, “Hội quán Nghĩa An – miếu (Ông) Quan Đế”, “Hội quán Ôn Lăng – chùa Quan Âm”, “Hội quán Nhị Phủ – Miếu Ông Bổn”, “Hội quán Hà Chương, miếu Bà Hà Chương”…
Và cũng sẽ sửa sai cho bạn bè người thân xung quanh, những ai đang gọi chưa đúng. Hành động nhỏ nhoi này cũng có thể xem trân trọng những giá trị văn hóa mà người Hoa đã tạo dựng nên từ quá khứ của vùng Sài Gòn – Chợ Lớn đầy đa dạng.
3. NHỮNG HỘI QUÁN CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI HOA Ở SÀI GÒN – CHỢ LỚN
Trong Gia Định thành thông chí (hoàn thành vào khoảng 1818-1820), Trịnh Hoài Đức đã miêu tả khu phố chợ Sài Gòn (khu vực Chợ Lớn ngày nay) như sau:
“Cách trấn (Gia Định) về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một đường đi dọc theo sông…. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có miếu Quan Đế và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có hội quán Chương Châu.”
Trong 7 cơ sở tín ngưỡng được nhắc đến, thì 2 miếu chung của cộng đồng người Hoa: miếu Quan Đế và miếu Thiên Hậu đã dần bị mai một trong đời sống. Miếu Quan thánh đã bị hủy năm 1975, miếu Thiên Hậu thì trong một khuôn viên thể thao, khuất hẳn sau một tòa nhà lớn.
5 hội quán riêng của từng cộng đồng thì vẫn còn tồn tại đến ngày nay, bao gồm:
- Hội quán Phúc Châu của cộng đồng người Hoa phủ Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến. Nay là hội quán Tam Sơn, thờ bà chúa Thai Sanh, là nơi cầu tự. Địa chỉ: số 118 Triệu Quang Phục.
- Hội quán Quảng Đông của cộng đồng người Hoa phủ Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông. Nay là hội quán Tuệ Thành, thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Địa chỉ: số 710 Nguyễn Trãi.
- Hội quán Triều Châu của cộng đồng người Hoa phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông. Nay là hội quán Nghĩa An, thờ Đức Quan Đế. Địa chỉ: số 676 Nguyễn Trãi.
- Hội quán Ôn Lăng của cộng đồng người Hoa phủ Tuyền Châu, tỉnh Phúc Kiến. Nay vẫn giữ nguyên tên cũ. Nơi đây thờ nhiều vị thần linh, nhưng đối tượng chính là Bồ tát Quan Âm. Địa chỉ: số 12 Lão Tử.
- Hội quán Chương Châu của cộng đồng người Hoa phủ Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến. Nay là hội quán Hà Chương, thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Địa chỉ: số 802 Nguyễn Trãi.
Ngoài ra, còn nhiều hội quán khác, có thể được xây dựng sau khảo cứu, nên chưa thấy đề cập trong tài liệu:
- Hội quán Phước An của cộng đồng người Minh Hương xây dựng lại năm 1902, thế cho miếu nhỏ An Hoà được xây từ 1865, thờ Đức Quan Đế. Địa chỉ: số 184 Hồng Bàng.
- hội quán Nghĩa Nhuận, nguyên là đình thôn Tân Nhuận, sau khi chuyển đổi thành hội quán của Hội Nghĩa Nhuận, nơi đây thờ Quan Công. Địa chỉ: 27 Phan Văn Khỏe.
- hội quán Quảng Triệu, thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Đây là nơi hội họp, giao lưu của người Hoa phủ Quảng Châu và Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông. Địa chỉ: 156 Võ Văn Kiệt.
- hội quán Nhị Phủ của cộng đồng người Hoa phủ Tuyền Châu và Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến. Nơi đây thờ Bổn Đầu Công, vị thần bảo vệ đất đai và con người. Tương truyền, sau khi tạo lập xong miếu Nhị Phủ, do bất đồng ý kiến, nên cộng đồng người Hoa ở Phúc Kiến đã tách ra: nhóm Tuyền Châu lập thêm Hội quán Ôn Lăng, nhóm Chương Châu lập thêm Hội quán Hà Chương. (Sổ tay hành hương đất phương Nam do Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 2002, tr. 265). Địa chỉ: 264 Hải Thượng Lãn Ông.
- hội quán Quỳnh Phủ của cộng đồng người Hoa gốc Hải Nam, được xây dựng khoảng 1824. Nơi đây thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu. Địa chỉ: 176 Trần Hưng Đạo.
Xét ra do người Tàu có tín ngưỡng, tin nhiều ở sự phù hộ của thần thánh, nên thuở đầu qua đây, đâu đâu đều có miếu thờ đức Quan Đế và bà Thiên Hậu. Nhưng như thế lại hóa hay, tuy thờ cúng có thể chung thần, nhưng kiến trúc và lịch sử xây dựng, trùng tu lại khác nhau. Trung Quốc rộng lớn, mỗi tỉnh lại có những văn hóa khác biệt thể hiện đời sống riêng của từng cộng đồng. Qua danh sách liệt kê ở trên, có thể thấy 3 trường phái xây dựng khác nhau: Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam. Lại là một chủ đề hấp dẫn cần nghiên cứu và đi thực tiễn rồi. 🙂
Đọc bài trước cùng chủ đề: Tìm hiểu về tín ngưỡng thờ “Ông”, thờ “Bà” của cộng đồng người Hoa